Tổ chức đúc tiền và lưu hành tiền tệ ở Đàng Trong

Chủ đề thuộc danh mục 'Tư liệu tham khảo' được đăng bởi NgocNhung, 18/4/11.

  1. NgocNhung

    NgocNhung New Member

    [​IMG]

    Nguyễn Anh Huy và bản thảo Tiền cổ học Việt Nam, sơ truy và lược khảo của anh

    Một nửa, nửa phía Nam của Việt Nam ngày nay, đất của Champa cũ, hình thành và nhất thống được, là do hai cuộc di dân để giữ biên ải phía Nam nước Đại Việt, nhưng nguyên nhân sâu xa thì khác nhau và tạo hệ quả khác nhau...

    Cuộc di dân năm 1306 theo Huyền Trân công chúa vào Ô-Lý, chỉ để giữ một cống phẩm và trở thành Thuận Hoá của Đại Việt, mục đích để thông hiếu với Champa...

    Nhưng cuộc di dân vào Thuận Hoá năm 1558 của Thái tổ Nguyễn Hoàng, sự ly khai của một dòng họ, mục đích là tìm tự do "thái bình" cho mình. mà từ đó cát cứ, hình thành nên tư tưởng lớn... Nam tiến, tạo nên một Đàng Trong, rồi... nhất thống Đàng Ngoài để thành Việt Nam ngày nay!

    ...Thương cảng cổ Thanh Hà ở Thừa Thiên Huế, cửa ngõ quan trọng nhất để phát triển đô thị Phú Xuân, nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào văn bản để cho rằng được hình thành năm 1636(1), nhưng theo tôi, e chưa chính xác!, mà phải hình thành sớm hơn, tức khoảng thời Trần. Bởi quan sát về địa lý, thương cảng này rất gần thành cổ Hoá Châu, chỉ cách một con sông; trong khi có quân đội giữ thành Hoá Châu, "dinh (doanh trại)" thì phải có "thị (chợ đò mua bán)" để phục vụ! Tuy rằng thời Trần không có xưởng đúc tiền tại Hoá Châu để cho quân đội ở đây dùng, nhưng sự giao thương hằng ngày buộc phải đem theotiền triều đình để sử dụng(2).

    Thời Lê-Mạc, tiền của các triều đại này vẫn được lưu hành ở Thuận Hoá(3)... Cho đến khi Đoan Quận Công vào trấn thủ, khai hoang lập ấp... thì sự lưu hành tiền tệ ở đây có sự đột biến lớn... Để rồi sau cuộc ra Thăng Long của Nguyễn Huệ cũng như cuộc nhất thống năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh, đây là trung tâm chính trị cả nước, và cũng là nơi ban hành các chính sách về tiền tệ...
     
  2. NgocNhung

    NgocNhung New Member

    THỜI CHÚA NGUYỄN
    Thị trường mới khai phá...


    Chính sử nước ta, việc ghi chép cách sử dụng tiền tệ ở xứ Đàng Trong rất tiếc quá sơ sài. Christophoro Borri, một người châu Âu đến Đàng Trong năm 1621 cho biết: "Người Tàu và người Nhật là những người làm thương mại chính ở xứ Đàng Trong"(4). Và theo thống kê số lượng thuyền có cấp giấy phép châu ấn, do chính quyền Nhật cấp cho các thuyền buôn Nhật Bản xuống Đông Nam Á, trong 30 năm (1604-1635) gồm 356 thuyền, thì trong đó có 87 thuyền đến Đàng Trong, chiếm số lượng cao nhất(5).

    Sở dĩ thương gia Trung-Nhật thích buôn bán nhiều ở Đàng Trong, ngoại trừ đây là thị trường mới khai phá, còn có những điểm thuận lợi là ở đây nằm trong khối đồng văn, cùng tiếng nói chữ viết; hơn nữa, tình hình an ninh rất ổn định: "Canh Ngọ, năm thứ 13, ...Chúa [Nguyễn Hoàng] bèn kiêm lãnh hai xứ Thuận Quảng, Quảng Nam... Bấy giờ chúa trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn"(6); ngoài ra, các chúa còn khôn ngoan: "Chúa [Nguyễn Phúc Nguyên] lên nối ngôi... vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục..."(7) và "chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở của cho tất cả người ngoại quốc"(8).

    Hiện ở Nhật Bản vẫn còn lưu trữ "Ngoại phiên thông thư", là những thư từ giao dịch quốc tế của Nhật thời Edo (1603-1687); trong đó có 56 bức thư của chúa Trịnh và chúa Nguyễn gởi cho Mạc phủ Tokugawa và những thư trả lời của Mạc phủ từ năm 1601 đến 1694. Nội dung nhiều thư cho thấy các chúa rất coi trọng quan hệ với Nhật Bản, luôn tạo thuận lợi cho tàu buôn Nhật Bản "thông qua thương nghiệp để nối tình hữu nghị giữa hai nước"(9).

    Sự giao lưu thương mại phát triển rộng mở, do vậy lưu thông tiền tệ là một nhu cầu thiết yếu. Nhưng mãi đến năm 1688, ở Đàng Trong vẫn thiếu khối lượng tiền lưu hành; như ta thấy bức thư của chúa Nguyễn Phúc Thái, phó thác cho một chủ thuyền người Trung Hoa tên Hoàng Khoan Quan đem hàng hoá sang Nagasaki mua bán và trình Shogun Dymitsu (Mạc Phủ Đức Xuyên) thỉnh cầu đúc tiền đồng viện trợ như sau: "Quý quốc và quốc gia tôi xa nhau... Nghe nói rằng ngày xưa, tuy xa nhau vẫn có quốc giao... Tôi thầm nghĩ, nước tôi bây giờ cần rất nhiều kinh phí cho lưu thông tiền tệ, nhưng kỹ thuật chế tạo tiền tệ không có, nên đành phải gác vấn đề tài chính lại. Tôi nghe rằng, ở quý quốc sản xuất đồng tốt, và chế tạo tiền tuỳ theo nhu cầu. Nếu thật như thế , tại sao không chế thật nhiều tiền bằng đồng để cứu những nước nghèo về tiền tệ. Điều mong muốn đối với quý quốc làm luật lưu thông tiền tệ ở nước ngoài, và giao dịch ở nước tôi và hai quốc gia chúng ta cùng được lợi..."(10).
     
  3. NgocNhung

    NgocNhung New Member

    Từ nhu cầu lưu hành tiền...

    Giữa xứ Đàng Trong và khối đồng văn như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đều sử dụng chung một loại tiền và không phân biệt; mối quan hệ ngoại thương đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tổng hợp (11), ở đây chỉ trích dẫn một vài điều có liên quan đến tiền tệ...

    Từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVI, người Nhật đã nhập tiền Vĩnh Lạc Thông Bảo từ Trung Quốc để sử dụng. Nhưng đến năm 1608, chính quyền Nhật cấm các loại tiền này để dần chuẩn hoá tiền nước mình; và đây là cơ hội để các thương gia Nhật đem các loại tiền cũ này xuống bán cho Đàng Trong (12) mà người Hà Lan gọi là "món hàng có lời nhất"(13):

    Tháng giêng năm 1637, lái Hà Lan đã mang đến cửa Hàn (Tourane-Đà Nẵng) 13.500.000 đồng zènes [tiền đồng của Nhật](14).

    Ngoài người Hà Lan ra, người Trung Quốc cũng đem đến Đàng Trong một số lượng lớn tiền Nhật. Chẳng hạn, vào tháng 9/1637, 4 chiếc thuyền của người Hoa chở từ Nhật tới Đàng Trong... 2 triệu zènes(15).

    "Tiền đồng này là một món hàng nhập cảng được đòi hỏi nhiều nhất ở Đàng Trong... Những lái Nhật thật là những tay cạnh tranh đáng sợ. Những tiền đồng họ mang từ Nhật sang, bao giờ họ cũng bán lại cho những kiều dân Nhật ở Faifoo..."(16).

    Nguyễn Anh Huy và bản thảo Tiền cổ học Việt Nam, sơ truy và lược khảo của anh

    Ban đầu, các chúa Đàng Trong mua tiền đồng này chủ yếu để đúc súng chống lại Đàng Ngoài. Nhưng trong một môi trường của nền kinh tế hàng hoá, và thiếu khối lượng tiền lưu hành nên nó cũng trở thành nhu cầu sử dụng hoá tệ ngày càng tăng:

    "Thuyền Nhật... đổi hàng ở Trung Quốc... nhất là đồng... các thuyền mua (đem đến Đàng Trong) từ Quảng Đông: tiền đúc được lãi rất nhiều..."(17).

    Cho đến năm 1776, Lê Quý Đôn cho biết: "Tiền Khai Nguyên nhà Đường và tiền Thuần Hoá, Tường Phù nhà Tống, luyện đồng rất tốt, chôn xuống đất không nát. Chữ ở tiền nhà Tống phần lớn là chữ vua viết... Năm Giáp Ngọ, quân nhà vua vào Thuận Hoá, biên kho tàng, hơn 30 vạn quan xâu bằng mây, đều là tiền tốt, một đồng không lẫn, mới biết từ trước đều do thuyền buôn chở về đấy..."(18).
     
  4. NgocNhung

    NgocNhung New Member

    Đến việc đúc tiền ở Thuận Hoá-Phú Xuân...

    Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) làm bài thơ "Thuận Hoá vãn thị" (Cảnh chợ chiều Huế) trong đó có câu: "Thời cô bạch tửu năng diên khách/Nhật dụng thanh tiền khước tiện dân"(19), hàm ý thời ấy chưa đúc ra tiền bằng đồng thau (thanh tiền) là một việc giúp cho dân tiện lợi khi sử dụng hàng ngày.

    Năm 1776, Lê Quý Đôn ghi lại một sự kiện ở xứ Đàng Trong: "Theo lệ cũ nhà Nguyễn, người nào mới được nối ngôi chúa thì cứ theo kiểu mẫu tiền cũ mà đúc, ở khoảng nhỏ đồng tiền cũng đề hai chữ Thái Bình..."(20). Theo sự thống kê sơ bộ và nghiên cứu của chúng tôi, hiện tại có 9 loại tiền Thái Bình Thông Bảo khác nhau, phần nào gần trùng hợp với con số 9 của 9 đời chúa Nguyễn. Và hai chữ "Thái Bình" trên hệ thống tiền mà các chúa theo lệ phải đúc, là một hình thức là luôn ghi nhớ sự tích "Từ thuở mang gươm đi mở nước", cũng như để nhắc nhở di huấn của chúa Tiên(21).

    Đại Nam Thực Lục cho biết: Tháng 4 Ất Tỵ (1725), Nguyễn Phúc Thụ mới lên ngôi, "Đúc thêm tiền đồng. Buổi quốc sơ thường đúc tiền đồng nhỏ (in hai chữ Thái Bình), lại có tiền cũ và tiền Khang Hy nhà Thanh, dân gian vẫn thông dụng. Bấy giờ có người huỷ tiền để đúc đồ dùng, số tiền cũ ngày một hao, cho nên có lệnh đúc thêm"(22). Nhưng "Hai xứ Quảng Nam và Thuận Hoá không có mỏ đồng, nước Nhật Bản thì thổ sản có nhiều đồng đỏ nên hàng năm tàu nước ấy chuyên chở đồng đến nước ta bán, nhà nước phái người đến thu mua"(23). Song do kỷ thuật đúc tiền còn kém nên chúa thường nhờ nước ngoài giúp đỡ: "Năm 1733, thấy việc đúc tiền có lợi, công ty Đông Ấn-Hà Lan nhận với chúa đúc tiền đồng với trị giá 800.000 florins (1 florins = 27g bạc). Được một năm, thấy không có lãi mấy, công ty thôi"(24).

    Các loại tiền bằng đồng đỏ do Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Thụ đúc này thường mang các hiệu tiền của Trung Quốc hoặc các hiệu lạ nhưng có thư pháp và kỹ thuật đúc tiền Việt Nam đương thời, thỉnh thoảng hay gặp ở các di tích thế kỷ XVIII; đến nay, tôi đã phát hiện 21 hiệu tiền(25).

    Đến thời "Hiểu Quốc Công Nguyễn Phúc Khoát nghe lời người khách nước Thanh họ Hoàng, mới mua kẽm của nước Hoà Lan để đúc tiền, mở trường đúc ở xã Lương Quán... vành và nét chữ theo dáng tiền Tường Phù nhà Tống... Lại nghiêm cấm đúc riêng nên tiền ít khi mỏng quá, việc công việc tư đều tiên tiêu dùng... Thế rồi người ta cất chứa tiền đồng không cho phát ra, lâu dần người quý thế tranh nhau xin đúc thêm đến hơn trăm lò, gọi là tiền Thiên Minh Thông Bảo..."(26). Chỉ tính riêng trong 3 năm đầu, Lê Quý Đôn co biết: "Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn (1746, 1747, 1748) đúc được 12.396 quan"(27).

    Những đồng tiền cổ chưa xác định được niên hiệu

    Việc đúc tiền kẽm này quá phát triển tạo nên cơn sốt kẽm (toutenague) mà chỉ "mới 2 năm nay, nước Mã Cao đem kẽm đến bán, không kém 15 vạn cân, tuyệt không cấm đoán"(28), làm thương gia Pierre Poivre của Pháp cũng sốt sắng xin chúa đúc giúp tiền kẽm. Và rồi "năm 1755, công ty Hoà Lan thoả thuận với Võ Vương là hàng năm sẽ nhận một số tiền đúc trị giá 600.000 florins với điều kiện nộp cho chúa 12% và cho cai bạ 2%.."(29). Sự xuất hiện của tiền kẽm gây nên nhiều phức tạp trong quá trình giao lưu thương mãi mà Pierre Poivre, đặc phái viên của công ty Đông Ấn-Pháp đến xứ Đàng Trong năm 1749 cũng nói: "...việc thương mãi của xứ này đang bị xáo trộn vì sự lưu hành một thứ tiền kẽm, nó gây ra nhiều sự gian trá, độc quyền và rối ren đủ thứ. Các tệ hại này không thể tồn taị lâu được, nhưng tôi không thể biết trước bao giờ sẽ chấm dứt"(30); còn Dật sĩ Thuận Hoá là Ngô Thế Lân, đã làm bài "Luận tiền tệ" được Lê Quý Đôn chép lại trong Phủ Biên Tạp Lục, trong đó có đoạn sau: "...thế mà từ năm Mậu Tý đến nay, giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém là cớ làm sao? Thần trộm nghĩ không phải thiếu thóc mà chính tiền kẽm gây nên vậy". Các loại tiền kẽm này, ngày nay rất dễ tìm thấy ở các di tích thế kỷ XVIII, hiện nay tôi đã thống kê được 85 hiệu tiền.(31).

    Việc đúc tiền tại Phú Xuân là thủ phủ Đàng Trong còn chưa đáp ứng được nhu cầu, chúa Nguyễn còn cho phép thuộc hạ của mình đúc tiền: "Mùa Xuân năm Bính Thìn, Túc Tông hoàng đế thứ 11 (1736), lấy Thiên Tứ làm Đô đốc trấn Hà Tiên, ban cho ba chiếc thuyền long bài, miễn cho thuế má. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc buôn bán..."(32); và "Họ Mạc đúc tiền cỡ nhỏ, hiệu Thái Bình-An Pháp, được lưu hành vào xứ Thuận Hoá"(33). Theo kết quả nghiên cứu của tôi, tiền do Mạc Thiên Tứ đúc tại Hà Tiên có đến 45 hiệu tiền bằng đồng thau, nhỏ mỏng đường kính khoảng 20-21mm, thường được tìm thấy trong các di tích thế kỷ XVIII ở Thuận Hoá-Phú Xuân.

    Ngoài việc sử dụng lại các tiền đồng, kẽm mới đúc hoặc các loại tiền Trung Quốc - Nhật Bản -Triều Tiên, chúa Nguyễn còn sử dụng cả bạc nén là một loại trữ tệ trước đây chưa thấy dùng, và cả các loại tiền bằng bạc của Tây phương như một thứ ngoại tệ. Năm 1749, Pierre Poivre đến Thuận Hoá xin chúa "cho thông dụng đồng quan Pháp đóng thêm dấu "thông báo" và ăn ngang 1 quan 3 tiền ta". Mặc dù tiền bằng bạc của Tây phương là các loại tiền lạ, dân gian chưa thật tin cậy như trong nhật ký của Pierre Poivre đã nói: "Ở xứ này, họ không biết giá trị của đồng piastre của chúng ta"(34), nhưng thực tế cho thấy các loại tiền châu Âu vẫn được sử dụng: Năm 1993, anh Trần Tiễn Tâm ngụ cư ở Thanh Hà (Minh Hương-Thừa Thiên Huế), trong công việc đồng áng đã đào được nhiều loại tiền bằng bạc của Tay phương cùng nhiều bạc nén thời chúa Nguyễn; tôi có đến xem thấy phần lớn là tiền của Hispan (Tây Ban Nha) và Belg (Bỉ), đồng xưa nhất là năm 1741 và mới nhất là năm 1759.

    sưu tầm
     

Ủng hộ diễn đàn