Tiền Trường Kỳ với sự giao thương giữa Nhật Việt vào thời Trịnh

Chủ đề thuộc danh mục 'Diễn đàn sưu tập tiền xu việt nam' được đăng bởi youngboss1vn, 17/9/09.

  1. youngboss1vn

    youngboss1vn Admin Staff Member

    Tiền Trường Kỳ với sự giao thương
    giữa Nhật Việt vào thời Trịnh Nguyễn.



    Lục đức thuận

    CopyRights by the Author and VietAntique.com

    [​IMG]

    BỐI CẢNH LịCH SỬ

    Cho đến nay, không có một tài liệu nêu rõ ở một thời điểm xác định nào, người Nhật bắt đầu buôn bán với Việt Nam, mà chỉ biết rằng người Nhật đến nước Việt sau người Trung Hoa nhiều trăm năm. Theo hai giáo sư Hasebe Gakuji thuộc Viện Bảo Tàng Quốc Gia ở Ðông Kinh và Aoyagi Yogi thuộc Viện Ðại HọcYochi của Nhật, trong những cuộc tìm kiếm khảo cổ, người ta đã tìm thấy những mảnh đồ gốm của Việt Nam ở hướng Bắc của đảo Kyushu bên Nhật. Trong những di tích cổ vật này, có một đĩa gỗ vẫn còn chữ viết đọc được là năm 1330.

    Con cháu thần Thái Dương đã đến mua bán với chúng ta, hay người Việt vượt trùng dương tới Kyushu, nơi các thương thuyền ngoại quốc đến giao thương với Nhật trong thời xa xưa ? Từ thế kỷ thứ hai, lúc nước Việt ta ngoại thuộc vào nhà Hán, các Thái giám của Hán triều đã tuân lệnh vua Hán đến vùng biển Nam Hải để mua trân châu và được thuyền buồm của xứ man chuyên chở . Cho dù không hiểu rõ thuyền của dân Bách Việt, hoặc Chà Và, Ấn Ðộ, nhưng điều này đã nói lên có sự ngoại thương giữa các nước ở biển Nam Hải. Chỉ vài thế kỷ sau, ngoại thương trong vùng biển này đã phát triển mạnh, tàu bè Phù Nam, Lâm Ấp, Ả Rập cũng đã ghé vào liên hệ mua bán với bọn Thái Thú, Thứ sử của vùng Bắc Bộ. Nhất là thương nhân Ả rập đã đứng trung gian, mua hàng của nước này bán lại cho nước khác khắp vùng biển Nam Hải. Dù sao, sử liệu cho chúng ta biết rằng khi trấn HộI An đựơc chúa Tiên dựng lên, đã có vài trăm người Nhật trú ngụ ở đấy. Và ở Phố Hiến, người Nhật chỉ đến sau người Hoa mà thôi.



    Sử liệu Việt Nam đã thuật lần tiếp xúc đầu tiên giữa Việt và Nhật. Năm 1585, con trai thứ sáu của chúa Tiên là Nguyễn phước Nguyên đã dẫn hơn mười chiến thuyền tấn công năm tàu của Kenki (Bạch Tần Hiển Qúy), người Nhật; khi họ xông vào cửa Việt để cướp bóc. Hai tàu của Kenki bị đánh đắm nhưng ông ta trốn thoát được. Sử thần lầm tưởng Kenki là người Tây Dương . Ðến năm 1599, Kenki bị đắm thuyền ở cửa Thuận An và giam cầm ở Ðàng Trong. Theo Dị Quốc Vãng Lai Nhật Ký ghi lại năm 1601, Nguyễn Hoàng, trong lá thư đầu tiên gởi cho Tokugawa Ieyasu, xưng là An nam quốc Thiên hạ Thống binh Ðô Nguyên Súy, nhắc đến chuyện đã bắt giam Kenki vì không nhận biết là thương nhân của Nhật và đã phóng thích. Quan trọng hơn trong lá thư này, chúa Tiên đã đề nghị Tokugawa giao thương với Ðàng Trong .

    Lùi lại về vài thế kỷ trước, chúng ta sẽ thấy rõ khởi nguồn vì sao người Nhật muốn giao thương vớI Ðại Việt. Từ thế kỷ thứ 8 ở Trung Hoa, đời Ðường, người Hoa đã vượt biển đến Nhật Bản, Chiêm Thành, Chà Và... để mua bán trao đổi. Hàng hoá thường là lụa gấm, đồ sành sứ. Ðến đầu thế kỷ 12, đời Tống, thương nhân Nhật nhập hội, khởi sự vượt biển đến Trung Hoa giao thương. Và đầu thế kỷ 16, đời Minh Võ Tông, giao dịch giữa Hoa Nhật không xuôi thuận, và tệ hơn nữa, khoảng vài chục năm sau, Trung Hoa điêu đứng với nạn cướp biển Nhật, gọi là Nụy Khấu (giặc lùn), cướp phá các tỉnh miền duyên hải. Nhà Minh lại càng xiết chặt lệnh cấm dân Trung Hoa không được xuất dương buôn bán với ngoại nhân, nhất là với người Nhật, không phân biệt lương thiện hay cướp biển. Về sau, năm 1567, Minh triều mở rộng cho phép dân được ra khơi mua bán trở lại, nhưng vẫn giữ lệnh nghiêm cấm giao dịch với người Nhật.

    Lúc bấy giờ, Nhật Bản có nhu cầu quan trọng về tơ lụa gấm vóc để cung cấp cho triều đình, quan lại chức sắc và về vật liệu binh bị như diêm sinh, hoả khí. Không thể giao thương trực tiếp với người Hoa, các thương nhân Nhật bó buộc phải tìm những nơi trung gian ở xứ khác, để gặp các thương thuyền Trung Hoa. Nhờ vậy mà Phố Hiến, HộI An trở nên phồn thịnh trong suốt trong thế kỷ 17. Khởi đầu, người Nhật và Hoa mua bán với nhau, nhưng dần dần họ giao thương với người bản xứ, cùng người Tây Phương đang đổ xô vào các bờ biển của Á Ðông.

    CHÍNH SÁCH NGOại THƯƠNG NGỰ CHÂU ẤN TRạnG CỦA Mạc PHỦ.

    Năm 1600, Tokugawa Ieyasu đánh bại nhóm trung thần của Hideyori trong trận chiến Sekigahara. Ba năm sau, Ieyasu được Nhật Hoàng sắc phong làm Tướng Quân (Shogun), đánh dấu kỷ nguyên Edo (tức Tokyo ngày nay) trong lịch sử Nhật và trị nước cho đến 250 năm sau. Ieyasu và Nguyễn Hoàng đã thư từ mật thiết với nhau về việc giao thương giữa hai nước.

    Theo giáo sư Kawamoto Kuniye ở Viện Ðại Học Keio, trong Gaiban Tsuusho, một tài liệu ngoại giao trình bày về ngoại thương của Nhật với các nước từ 1599 đến 1764, lưu trữ một lá thư của Ieyasu gởi cho Nguyễn Hoàng vào tháng 10 năm 1601 với lời lẽ trong tương lai, thương thuyền từ nước của chúng tôi đến thăm qúy quốc sẽ được kiểm nhận bằng một lá thư có ấn tín. Và những thương thuyền không có ấn chỉ, qúy quốc nên xem là không hợp pháp. Chính sách ngoại thương Ngự Châu Ấn Trạng (Shuisen) của Nhật khởi đầu, theo đó thương thuyền Nhật sẽ mang một sắc chỉ đóng ấn đỏ của Tokugawa và được xem như thay mặt cho chính quyền Nhật để buôn bán với nước ngoài. Giấy phép này chỉ được cấp cho những thương nhân Nhật có tài lực và thân cận với chính quyền. Họ là hậu duệ của những dòng dõi danh tiếng bên Nhật như các thị tộc Chaya, Araki Store, Phuramoto, Suminnokura.

    Nhìn qua số lượng tàu Nhật có Ngự Châu Ấn Trạng đến Ðại Việt được ghi nhận sau đây, giáo sư Iwao Seichi đã cho thấy sự phát triển của nền giao thương Nhật Việt.. Tổng cộng từ năm 1604 đến năm 1635 gồm 37 thương thuyền đến Ðàng Ngoài và 97 thương thuyền đến Ðàng Trong.



    Năm Ðến Ðàng Ngoài Ðến Ðàng Trong

    1604-1605 5 9

    1606-1610 2 9

    1611-1615 3 26

    1616-1620 9 22

    1621-1625 6 7

    1626-1630 3 5

    1631-1635 9 9



    Tổng số 124 thương thuyền có giấy phép chính thức của Tokugawa đã đến Ðại Việt trong vòng 32 năm, chưa kể một số thuyền không có giấy phép. Quả là một sự thành công về ngoại thương của Ðại Việt vào thế kỷ 17.

    Hằng năm, cứ đến tháng 1, 2 dương lịch, khi gió Ðông Nam nổi lên, người Nhật xuất hiện với những thương thuyền chở đầy bạc thoi, tiền đồng cặp bến xứ ta. Ở Hội An, người Nhật khá đông nên Trấn thủ Quảng Nam cho lập phố Nhật, tức Nhật Bản Dinh (Nihomachi) cũng như cho người Hoa lập phố Hoa. Họ mua bán trong những chợ phiên, trao đổi hàng hóa và yếu phẩm. Người Nhật thường mua nhiều tơ lụa, tơ tằm sống, đường mía, sản phẩm thủ công, kỳ nam, hương liệu. . Giáo sĩ Christoforo Borri sống ở Hội An một thời gian, đã cho thấy mức lợi tức của sự mua đi bán lại này như sau kỳ nam, mua ở nơi vừa tìm được thì một pound độ 5 ducat , ngay cảng Hội An thì giá cao hơn, có thể tới 16 ducat, nhưng khi chuyên chở đến Nhật Bản, giá có thể lên đến 200 ducat . . nếu có một khối lớn để có thể làm gối kê đầu, ngườI Nhật có thể trả đến 400 ducat . Khi gió mùa nổi lên vào tháng 7, các thương thuyền chuẩn bị nhổ neo trở về Nhật, chờ sáu tháng sau lại qua buôn bán. Các thương nhân Nhật thường cho người đại diện ở lại Ðại Việt để thu mua trước hàng hoá, sẵn sàng cho đợt gió mùa năm tới. Nổi tiếng nhất ở Ðàng Trong là Chaya Shirojiro (Trà Ốc Tư Lang Thứ Lang ), thương nhân Nhật, chuyên mua tơ luạ, trầm hương, kỳ nam và bán tiền đồng, bạc, đồng cho chúa Nguyễn.
     
    Last edited: 17/9/09
  2. youngboss1vn

    youngboss1vn Admin Staff Member

    MỐI GIAO HữU giao Nhật Việt.

    Sự tiếp xúc giữa hai dân tộc Nhật Việt vào thế kỷ 17 và 18 đã mang lại những mối thân tình kết giao, hoặc ở cấp bậc chính quyền, hoặc ngay cả đối với thương nhân và giới dân dã.

    Ngoài những lá thư và qùa tặng giao hữu giữa Tokugawa và Nguyễn Hoàng, sau này được tiếp tục bởi Nguyễn phúc Nguyên, đã được lưu trữ để minh chứng sự giao hảo tốt đẹp giữa cấp bậc chính quyền của hai nước vào thời đó. Sử liệu còn nói đến những ưu đãi đặc biệt của chuá Nguyễn đối vớI các thương nhân Nhật Bản, nhằm mục đích đạt được thắng lợi về ngoại giao và thương mại. Khởi xướng cho mối giao hữu, chuá Tiên đã nhận Hunamoto Yabeiji, một thương nhân Nhật đến Ðàng Trong mua bán, làm con nuôi. Sau này đến đời chuá Sãi, Phan Khoang đã trích lại trong sách Hoà Văn Ngoại Phiên Thông Thư, chúa đã thân tình gả công chúa Ngọc Khoa cho thương nhân Araki Shutaro (Mộc Thôn Tông Thái Lang) và còn cho Tông Thái Lang được giữ họ Nguyễn, với tên Việt là Nguyễn Taro (Ðại Lương), cự danh là Hiển Hùng . Ngoài thư từ với Tokugawa, chúa Nguyễn còn gởi thư riêng đến các thương nhân Nhật như Honda Kouzukenosuke và Chaya Shiro Jiro, khuyến khích họ đưa thương thuyền đến Ðại Việt .

    Trước năm 1635, Ðàng Ngoài ít giao hảo với Nhật Bản như Ðàng Trong, tuy rằng người Nhật cũng có thương quán ở Phố Hiến để buôn bán. Thương thuyền Nhật thường cặp bến ở Phố Hiến thuộc xứ Sơn Nam Hạ ( gần tỉnh Hưng Yên ngày nay) và Kẻ Chợ gần kinh thành Thăng Long. Chủ thuyền Nhật nổi tiếng ở Ðàng Ngoài là Suminokura Kyoi ( Giác Thương Liễu Di ) chuyên mua tơ lụa và bán tiền đồng, bạc, súng ống cho chúa Trịnh .Ðặc biệt là sau khi Tokugawa cấm dân Nhật xuất dương và thương thuyền Nhật không còn cặp bến ở Ðàng Trong, một số người Nhật đã ở lại Ðại Việt, di chuyển từ Ðàng Trong ra Ðàng Ngoài, và làm thông ngôn, môi giới trung gian cho thương nhân Hoà Lan. Bấy giờ người Hoà Lan thay thế người Nhật để giao thương với Ðại Việt. Công ty Ðông Ấn Hoà Lan mua bán vớI Ðàng Ngoài nhiều hơn, vì mối giao hảo giữa người Hòa Lan và Ðàng Trong thường không được tốt đẹp cho lắm. Vài ngườI Nhật cũng có liên hệ mật thiết với triều Lê, như Dumoutier thuật chuyện vua Lê thần Tông có một ái phi người Nhật, bà Ouroussan .

    Sống trên đất Ðại Việt, thương nhân Nhật, cũng như ngườI Hoa, dễ hoà hợp với nếp sống Á Ðông. Một số thương nhân Nhật đã lập gia đình với phụ nữ Việt, cũng như đóng góp nhiều vào việc trùng tu những đình chùa, xây dựng những kiến trúc lợi ích công cộng. Cây cầu, còn gọi là Chùa Cầu hay chùa Nhật Bản, Nhật Bản Kiều (Nihonbashi) nối liền hai con đường Trần Phú và Nguyễn thị Minh Khai ở Phố Cổ Hội An ngày nay do ngườI Nhật xây cất từ thời đó, và những bia đá ghi công đức trùng tu ở chùa Non Nước, đã là những bằng chứng nói lên sự hoà nhập vào nếp sống của Ðại Việt thuở đó của các thương nhân Nhật. Theo nội dung bia đá ' Phổ Ðà Linh Sơn Trung Phật ' trong núi Non Nước, vùng Ðà Nẳng, ghi chép công đức đóng góp tiền bạc trùng tu nơi thờ Phật trên núi Phổ Ðà và tân tạo chùa Bình An vào năm 1640, cho chúng ta thấy trong 82 tên người đóng góp đã có 15 người Nhật. Và phần đóng góp của người Nhật rất cao, về tiền đồng lên đến 871 quan trong số 1522 quan tổng cộng và 50 lượng bạc trong số 70 lượng tổng cộng.
     
  3. youngboss1vn

    youngboss1vn Admin Staff Member

    DịCH Vụ BUÔN TIỀN.

    Ðể tìm hiểu vì sao người Nhật vào thế kỷ 17 có dịch vụ buôn tiền, nhìn lại lịch sử tiền tệ của Nhật, ta sẽ thấy rõ nguyên nhân. Nước Nhật có nhiều khoáng sản thiên nhiên như mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ vàng. Từ đầu thế kỷ thứ 8, người Nhật đã biết khai thác quặng mỏ nhưng không có tính cách quy mô cho lắm, vì thương mại của Nhật vào thời đó vẫn còn là đổi chác hàng hóa, chứ không có tính cách mua bán. Tiền đồng, bạc, vàng thường được lưu trữ trong kho, để ban thưởng hơn là lưu hành. Từ thế kỷ 12, sau khi có lệnh ngưng đúc tiền đồng, người Nhật sử dụng tiền Trung Hoa ngoại nhập. Ðến thế kỷ 15, vì giao dịch thương mại ngày càng phát triển, người Nhật nhận thấy nhu cầu tiền lưu hành trở nên cấp bách. Tướng Quân Ashikaga đã gởI nhiều sứ giả đến Trung Hoa yêu cầu nhà Minh gia tăng đúc tiền cung cấp, và người Nhật trao đổi bằng hàng hóa để đền bù lại. Chính vì thế, Toraisen, là tiền ngoại nhập từ Trung Hoa, như Gia Ðịnh thông bảo (Katei Tsuho) của Tống, Hồng Võ thông bảo (Kobu Tsuho), Tuyên Ðức thông bảo (Sentoku Tsuho) và Vĩnh Lạc thông bảo (Eiraku Tsuho) của nhà Minh lan

    tràn trên đất Nhật. Trong khoảng thời gian này, tiền do tư nhân đúc, còn gọi là Shichusen, cũng được đúc bởi các thị tộc danh tiếng và giai cấp giàu có, để bổ túc cho thị trường tiền tệ dù thứ tiền này kém phẩm lượng.Ðến thế kỷ 16, thời của Mạc Phủ Tokugawa, tiền nộI địa cùng với những đồng tiền ngoại nhập, bị mòn, nứt hay sứt mẻ, được gọI chung là Bitasen (tiền kém phẩm lượng) không còn được dân Nhật chuộng ngang giá với những tiền đồng tốt đầy đặn Toraisen. Lúc đó một đồng tiền tốt Toraisen trị giá bằng bốn đồng tiền Bitasen. Ðể giãi quyết vấn đề khác biệt giữa tiền tệ trong nước, Tokugawa muốn thống nhất hệ thống tiền tệ, đã ra lệnh cấm lưu hành các tiền ngoại nhập của Trung Hoa và cả những thứ tiền Nhật đúc thời trước. Năm 1608, chính quyền Nhật cấm lưu hành tiền Hoa, và hai năm sau, không nhận tiền Hoa trong việc thu thuế. Tokugawa cho khai thác quặng mỏ quy mô hơn, sau khi Nhật tìm thêm được nhiều mỏ bạc đồng vàng mới ở Sado, Echigo, Tajima . . và nhất là khi người Nhật học được từ người Hoa những kỷ thuật tinh luyện kim loại. Tiền đồng Thiên Chính thông bảo (Tensho Tsuho), Nguyên Hòa thông bảo (Genna Tsuho), Khoan Vĩnh thông bảo (Kanei Tsuho), tiền bạc và tiền vàng được đúc để thay thế dần những thứ tiền đời trước .

    Thương nhân Nhật nghĩ ra sáng kiến thu mua thứ tiền cấm và sụt giá này để bán cho các thương thuyền hay các nước khác. Dịch vụ buôn tiền vừa mang đến nhiều lợi tức

    cho Nhật, vừa được khuyến khích bởi chuá Nguyễn ở Ðàng Trong, đang cần đồng để đúc súng thần công và sử dụng tiền đồng ngoại nhập để tiêu dùng. Thời đó, các chuá Nguyễn đã yêu cầu ngườI Hòa Lan mua hết tiền đồng của Nhật, để mang đến bán cho Ðàng Trong. Ðến năm 1651, để đáp ứng lời yêu cầu cung cấp tiền đồng của Quế Vương, một thân vương của nhà Minh khởi nghĩa chống nhà Thanh vào thời đó, chính quyền địa phương của Nagasaki đã đúc tiền Vĩnh Lịch thông bảo (Eiryaku Tsuho) cung cấp cho Phúc Kiến, Ðài Loan. Tokugawa, ngoài việc đáp lại yêu cầu của chuá Nguyễn, còn được nhiều lợi tức, đã cho phép đảo Trường Kỳ được quyền đúc tiền để xuất cảng từ năm thứ hai của Manji (1659) đến năm thứ hai của Jokyo (1685) , sau nhiều lần từ khước những yêu cầu của chính quyền địa phương. Tuy nhiên đảo Trường Kỳ chỉ được phép đúc tiền ngoại thương, nhưng không được đúc tiền Khoan Vĩnh đang dùng trong nước Nhật. Dịch vụ buôn tiền và từ ngữ Trường Kỳ Mậu Dịch Tiền phát sinh từ đó, vì người Nhật đúc tiền đồng, thoi đồng mang đến Trường Kỳ, Nhật Bản để chở bán cho Ðại Việt. Tiền Trường Kỳ còn được tàu Leyden mang về Amsterdam vào năm 1621 để thử nghiệm kim loại trước khi người Hòa Lan định mua để lấy đồng. Tuy nhiên kết quả không như mong muốn, và người Hoà Lan chở tiền đồng đem bán cho các nước khác như Ba Tư, Âu châu trên những chuyến tàu về xứ họ . Tác giả đã có dịp liên hệ với Bác sĩ Wybrand Op den Velde ở Amsterdam, một sưu tập gia về tiền cổ Á châu và cũng là tác giả quyển Cash Coin Index, part 2: The Cash Coins of Vietnam xuất bản ở Amsterdam, về tiền Trường Kỳ. Ông ta cho biết tiền Trường Kỳ khá dễ tìm thấy ở Amsterdam. Có lẻ Batavia, Hội An và Amsterdam là ba địa điểm có liên hệ sâu xa nhất với tiền Trường Kỳ và là những nơi dễ tìm thấy thứ tiền ngoại thương này nhất vào ngày nay.

    Ở Ðàng Ngoài, tiền Trường Kỳ đã được dân Việt tiêu dùng như các tiền đồng của vua Lê, hoặc được nấu chẩy để đúc khí cụ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Ðàng Ngoài vào năm 1627 đã nói về tiền tiêu dùng thời đó, rằng có hai loại tiền lớn và nhỏ. Tiền lớn do người Hoa, Nhật mang vào, được tiêu dùng khắp xứ. Tiền nhỏ chỉ tiêu dùng ở kinh đô và bốn tỉnh chung quanh . Trị giá của tiền nhỏ tùy thuộc số lượng nhập cảng của tiền lớn vào mỗi năm. Tuy vậy, trung bình 10 tiền đồng nhỏ tương đương với 6 tiền đồng lớn.

    Từ năm 1671, người Anh bắt đầu nghiên cứu về dịch vụ buôn tiền của người Hòa Lan. Vài chi tiết được cung cấp trong sổ Nhật Ký của công ty Ðông Ấn của Anh ở Phố Hiến cho thấy :

    22-08-1672: 3 tàu Hòa Lan từ Batavia đến Ðàng Ngoài mang theo 6 triệu tiền đồng.

    07-04-1675: 1 tàu Trung Hoa từ Nhật đến Ðàng Ngoài mang đầy tiền đồng.

    17-06-1675: 1 tàu Hòa Lan từ Batavia đến Ðàng Ngoài với 80 rương chứa tiền đồng.

    23-02-1676: 2 tàu Trung Hoa từ Nhật đến Ðàng Ngoài với tiền đồng.

    Xứ Ðàng Trong không có mỏ đồng. Trong lúc đó, chuá Nguyễn rất cần đồng để đúc tiền, đúc súng chống lại họ Trịnh. Nguồn cung cấp phần lớn từ Nhật Bản, phần còn lại từ Trung Hoa và Batavia. Chúa Nguyễn cho nhập cảng một số lớn đồng trong suốt thế kỷ 17 và sang cả thế kỷ 18; cho dù rằng chiến tranh Trịnh Nguyễn đã chấm dứt sau khi Trịnh Tạc lùi quân về bên kia sông Gianh vào năm 1672, qua 7 lần Nam Bắc giao tranh. Nhu cầu đúc súng không còn cấp bách nữa, nhưng vì tiền đồng có lưu thông dồi dào, việc giao thương trong xứ mới phát triển. Ðiển hình là chính chúa Nghĩa, trong năm 1688, đã gởi bốn lá thư yêu cầu chính quyền Nhật đúc tiền bán cho Ðại Việt , khi Tokugawa khởi sự giới hạn việc xuất cảng bạc và đồng ra ngoại quốc.

    Tài liệu lưu trữ của công ty Ðông Ấn Hòa Lan cho thấy tầm vóc của dịch vụ buôn tiền ở Ðàng Trong. Từ năm 1633 đến 1637, công ty đã nhập cảng 105834 xâu tiền đồng Trường Kỳ, mỗi xâu gồm 960 đồng tiền, vị chi là 101600640 đồng tiền được nhập cảng trong một thờI gian năm năm. A. van Aelst cho chi tiết rõ hơn về số lượng tiền đồng khổng lồ này, là 1,250,000 tiền Vĩnh Lạc và 100,000,000 tiền Khoan Vĩnh . Như thế, khoảng 20 triệu đồng tiền được đưa vào Ðàng Trong mỗi năm do người Hòa Lan. Ðó là chưa kể đến số lượng tương đương từ các thương thuyền Nhật và Hoa. Tài liệu cũng cho thấy một số lượng đồng khá lớn được dùng trong việc quốc phòng, như năm 1636, chúa Thượng đã mua 30 ngàn lạng đồng hạng xấu để đúc súng thần công. Và tháng chín năm 1637, bốn thương thuyền Hoa cặp bến Ðàng Trong với hai triệu đồng tiền Nhật. Khi Tokugawa ban hành chính sách bế quan toả cảng Sakoku và ra lệnh cấm thương nhân Nhật Bản xuất dương từ năm 1635, kẻ nào vi phạm luật sẽ bị tội chết, và chỉ cho phép thương thuyền của người Hòa Lan và Trung Hoa đến giao thương ở Trường Kỳ; thương nhân Nhật Bản đã chuyển nhượng số tiền đồng lên đến 200 tấn qua tay người Hòa Lan, để nguồn tiếp liệu được duy trì đều đặn.

    Chẳng trách chỉ hơn 50 năm sau thế kỷ 18, khi Lê qúy Ðôn theo Ðoan quận Công Bùi thế Ðạt vào chiếm Thuận Hoá, Quảng Nam, đã phải than rằng ngày trước nhà Nguyễn dùng đồng rất hoang phí. Ðồng được dùng làm những cái đinh, những bản lề, và trang sức cho các công đường, đình sở. Trong Phủ Biên Tạp Lục, ông đã dẫn chứng về việc nhập cảng đồng từ Nhật, Hoa của chúa Nguyễn.... Hai xứ Thuận Hoá và Quảng nam không có mỏ đồng. Nước Nhật Bản thì thổ sản có nhiều đồng đỏ, nên hằng năm tàu nước ấy chuyên chở đồng đến nước ta bán, quan chức nhà Nguyễn phái ngườI đến thâu mua, cứ 100 cân trị giá 45 quan tiền đồng. Còn như tàu thuyền các khách buôn ở tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Ðông thuộc nước Trung Hoa có chuyên chở đồng đỏ sang nước ta bán, thì phải khai báo đầy đủ giấy tờ, bấy giờ các quan chức mới y theo giá định kể trên mà mua hết. Còn thừa bao nhiêu, các khách buôn mới được phép bán, đổi chác cho người ngoài..

    Mức lợi tức của dịch vụ buôn tiền trong giai đoạn này ra sao ? Nhật Ký của Công ty Ðông Ấn Hòa Lan cho thấy rõ lý do người Hòa Lan đã tham gia vào dịch vụ này. Vào những năm 1635-1636, những xâu tiền trị giá 1 lạng bạc ở Nhật bán được ở Ðàng Trong với giá 10.5 lạng . Người Hoa cũng nhận thấy mối lợi lớn này. Nhiều thương thuyền Trung Hoa, hoặc sang Nhật buôn tiền Trường Kỳ hoặc mang tiền Hoa, sang bán cho Ðại Việt. Từ năm 1684, tiền Khang Hi được đúc giảm trọng lượng. Một lạng bạc tương đương 1400 - 1500 đồng tiền Khang Hi nặng hay 3030 đồng tiền Khang Hi nhẹ, nghĩa là tương đương hơn 5 quan tiền Ðại Việt (1 quan = 600 đồng). Trước năm 1750, theo Pierre Poivre, ở Ðại Việt, 10 lạng vàng ăn từ 130 đến 150 quan , nghĩa là 5 quan tương đương vớI 0.3846 lạng vàng . Như thế, thương buôn phải trả 1 lạng bạc để mua được 1 chỉ vàng ở Trung Hoa theo trị giá tỷ lệ vàng bạc 1/10 thời đó, nhưng nếu buôn tiền, 1 lạng bạc có thể kiếm được gần 3.8 chỉ vàng ở Ðại Việt.
     
  4. youngboss1vn

    youngboss1vn Admin Staff Member

    TIỀN TRƯỜNG KỲ

    Không kể đến tiền Nhật chính thống như tiền Khoan Vĩnh và các tiền Hoa ngoại nhập vào đất Nhật từ đời trước như tiền Vĩnh Lạc, Hồng Vũ đã được đưa vào Ðại Việt, tiền đồng đúc ở Trường Kỳ có ba loại chính: Trường Kỳ Vĩnh Lịch tiền, Trường Kỳ Ngũ Hành tiền và Trường Kỳ mậu dịch tiền.

    Tiền Trường Kỳ Vĩnh Lịch (Nagasaki Eiryaku Sen) được sử dụng bên Ðài Loan, đúc theo mẫu Vĩnh Lịch thông bảo của tiền Hoa. Vĩnh Lịch là niên hiệu của Quế Vương (1646-1662), một thân vương của nhà Minh, được lập ở Triều Khánh, Quảng Ðông, trong khi nhà Thanh đã chiếm Bắc Kinh; sau Quế Vương bị Ngô tam Quế giết chết vào năm 1662. Khi thượng tướng Trịnh thành Công chiếm cứ Ðài Loan làm căn cứ địa để khôi phục nhà Minh, thì dịch vụ buôn tiền trở nên phát đạt vì thêm mối khách hàng. Cho nên đến khi Khang Hi bình định được Ðài Loan vào năm 1683, thành trì phản Thanh phục Minh cuối cùng bị phá vỡ, dịch vụ buôn tiền trở nên trì trệ, rồi chấm dứt sau đó.

    Tiền Trường Kỳ Ngũ Hành (Nagasaki Gogyo Sen) là một loại tiền đúc đặc biệt ở Trường Kỳ để chúc may mắn cho Teiseiko, một người Nhật đã bỏ trốn sang Ðài Loan . Loại tiền này gồm các đồng Tứ Kim (Kin Sen), Tứ Mộc (Moku Sen), Tứ Thủy (Sui Sen), Tứ Hoả (Ka Sen) và Tứ Thổ (Do Sen). Mỗi đồng tiền được đúc bốn chữ tượng trưng cho một hành trong Ngũ Hành, với bốn mẫu chữ khác nhau.

    Tiền Trường Kỳ Mậu Dịch (Nagasaki Boeki Sen) là tiền dùng trong việc giao thương, phần lớn được đưa vào Ðại Việt thời đó và một phần cũng được xuất cảng đến Hoà Lan để nấu chảy. Loại tiêu biểu và được đúc nhiều nhất là tiền Nguyên Phong thông bảo, ngườI Nhật gọi là Genho Tsuho. Có đồng viết chữ triện, hoặc chữ thảo, hoặc chữ khải và tất cả chữ đều đọc vòng. Ðường kính tiền vào khoảng 24 mm. Gờ viền lỗ ở mặt sau có thể có hay không. Tiền Trường kỳ Nguyên Phong có đến 40 loại mẫu khác nhau.

    Có loại viết chữ thảo (gọi là Gyo Sho Genho), hoặc chữ triện (Cho Kan Ho Genho). Có loại chữ viết to (Hiji Genho), hoặc chữ viết nhỏ (Shoji Genho). Có loại tiền với vành tròn của rìa lớn hơn và có trị giá gấp 2 đồng khác mà ngườI Nhật gọi là loại Taiyo. Người sưu tập lại còn phân biệt thêm dựa vào chi tiết, từ nét ngang cuối cùng của chữ Phong có ngang hàng với nét ngang dưới của lổ vuông hay không, hoặc nét móc của chữ Nguyên dài hay ngắn hơn cạnh dọc của lổ vuông.

    Niên hiệu dùng trên tiền Trường Kỳ thường là những niên hiệu của nhà Tống. Tuy

    vậy tiền Trường Kỳ vẫn có những đặc thù, khi nhìn hai đồng tiền Trường Kỳ và Trung Hoa chúng ta sẽ phân biệt rõ rệt ngay. Ðặc điểm nổi bật nhất của tiền Trường Kỳ là lỗ vuông ở giữa tiền rất to , từ 7 mm đến 8 mm, viền lỗ được kẻ vuông vắn. Ngoài ra thư pháp cũng có những điều khác biệt với tiền Trung Hoa, như chữ viết đơn giản, bớt nét của trường hợp chữ Phong viết thảo; hoặc chữ viết như được vẽ đồ theo nét mẫu như chữ Phong viết chữ khải của tiền trên. Hợp kim dùng đúc tiền của ngườI Nhật Bản không giống như của người Trung Hoa, vì thế màu hoen rĩ sét trên tiền Trường Kỳ cũng có điểm khác biệt.

    Kế đến là tiền Trường Kỳ Tường Phù nguyên bảo cũng rất thông dụng thời đó. Người Nhật gọi là Shofu Genho. Chữ của tiền đọc vòng. Một số tiền Trường Kỳ khác, chữ viết chân phương như tiền Gia Hựu thông bảo (Kayu Tsuho), Hi Ninh nguyên bảo (Kinei Genho), Thiên Thánh nguyên bảo (Tensei Genho).

    Tác giả Tạ Chí Ðại Trường trong Những Bài Dã Sử Việt, khi nói về tiền Trường Kỳ, cho biết sách của Ðinh Phúc Bảo còn có tiền Trường Kỳ Thái Bình thông bảo với hai mẫu hình một đồng có chữ VĂN và một đồng có Nhật Nguyệt ở lưng tiền và tiền Trường Kỳ Hoàng Tống . Người Nhật gọi Thái Bình Thông bảo là Taisei Tsuho. Tuy nhiên các sách về tiền cổ của Nhật Bản không thấy nói đến tiền Trường Kỳ Thái Bình và Hoàng Tống này.

    Tiền Trường Kỳ cũng có nhiều đồng viết chữ triện, như tiền Trị Bình nguyên bảo (Jihei Genho), tiền Hi Ninh nguyên bảo (Kinei Genho), tiền Thiệu Thánh nguyên bảo (Shosei Genho).

    Trong dịp thảo luận với anh Lê Hoàn Hưng, biên tập viên của Tạp chí tem ở Việt Nam, về tiền Trường Kỳ, chúng tôi được biết có loại tiền mậu dịch Trường Kỳ do Ðàng Trong đúc lại. Theo nhận xét của anh Lê Hoàn Hưng, tiền mậu dịch của Nhật đúc đẹp và sắc sảo hơn; còn loại tiền đúc lại, thường là tiền Nguyên Phong Thông Bảo, đúc không đẹp và kém sắc sảo, nhất là ở chữ Phong. Một số tiền khác đúc nhỏ mỏng và xấu rất dễ phân biệt.

    Cuối thế kỷ 16, nền kinh tế của các nước thuộc vùng Ðông Nam Á đã được kích động nhờ vào số lượng bạc khổng lồ của Nhật Bản và Mễ tây Cơ tung vào thị trường. Giao thương giữa các nước được khuếch trương cả trăm năm. Nhưng đến cuối thế kỷ 17, nền kinh tế của vùng này đã bị trì trệ, cũng bởi ngườI Nhật thực hiện chính sách bế quan toả cảng.

    Nhìn lại năm 1635, khi Mạc Phủ cấm đoán thương nhân Nhật xuất dương, nhưng chúng ta đã thấy người Nhật vẫn mua bán, xuất nhập cảng qua tay người Hòa Lan và Trung Hoa. Do đó kinh tế toàn vùng vẫn phát triển. Nhưng đến năm 1685, Mạc Phủ xiết chặt mức độ xuất cảng bạc và đặt giới hạn trên số lượng hàng hoá mua bán giữa các xứ khác vớI Nhật Bản. Và hơn nữa, đến năm 1715, Mạc Phủ còn ngăn cấm việc xuất cảng đồng ra khỏi nước Nhật. Bạc và đồng là nguồn nuôi dưỡng nền giao thương giữa các nước Ðông Nam Á. Chính sách bế quan tỏa cảng của Nhật thật sự đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự giao thương toàn vùng nói chung và tới dịch vụ buôn tiền nói riêng.

    Ðầu thế kỷ 18, Người Anh, người Bồ đào Nha không còn thấy được nhiều lợi tức như trước, nên họ cũng ít lui tới mua bán với Ðại Việt. Nhất là ngườI Anh đã tìm thấy thị trường mua bán vải vóc ở Ấn Ðộ khởI sắc hơn. Hương liệu cũng không còn độc quyền cung cấp ở các quần đảo thuộc Mã Lai, Nam Dương nữa, mà ngườI ta có thể tìm thấy ở Phi châu, Nam Mỹ. Giao thương của Ðại Việt bước vào thế kỷ 18 với một nhịp điệu chậm yếu. Phố Hiến, HộI An không còn phồn thịnh như trước. Kinh tế của Ðàng Trong lẫn Ðàng Ngoài gặp nhiều khó khăn. tiếp đến những đói kém, thiên tai, bệnh dịch đã dẫn đến nội loạn sau này.
     

Ủng hộ diễn đàn